Saturday, March 31, 2012

Lâm Mai Thy - Pháp Môn Phowa "Chuyển Di Thần Thức"



VanHoaNBLV có dịp phỏng vấn Chị Lâm Mai Thy về Pháp môn Phowa (Chuyển Di Thần Thức) thuộc Phật Giáo Tây Tạng.

Lâm Mai Thy tu tập theo hai dòng chính là Nyingma và Drikung Kagyu, bậc thầy hướng dẫn cho Lâm Mai Thy là His Holiness Kusum Lingpa, Bhakha Tulku Rinpoche (cũng là Cha đỡ đầu "adopted father") và Sư phụ Ayang.

Lâm Mai Thy hiện là Vice-president của Viet Nalanda Foundation & Treasurer of Tara without Borders cũng là sáng lập viên Vairotsana Foundation cùng với Đạo sư Bhakha Tulku Rinpoche. Công việc hàng ngày của Lâm Mai Thy là Counselor for Peek Funeral Home, cùng làm việc thiện nguyện cho The Hospice Touch.

Muốn biết thêm chi tiết về Viet Nalanda Foundation & Treasurer of Tara without Borders, xin vào trang mạng:
http://www.vietnalanda.org/tarawithoutborders.html

Cuộc phỏng vấn này có sự tham dự của Chị Lê Ngọc Điệp, Tiến sĩ Mai Thanh Truyết được thực hiện vào ngày 24 tháng 03 năm 2012 tại Garden Grove, Miền Nam California, Hoa Kỳ.

Thực hiện video clip
http://noigio.blogspot.com

Friday, March 30, 2012

Tulku Orgyen - Lo Ngại Về Hiện Tình Tây Tạng 2012




VanHoaNBLV có cơ duyên gặp gỡ và thực hiện một cuộc phỏng vấn ngắn với Tulku Orgyen Phuntsok về hiện tình Tây Tạng, vào ngày 24 tháng 03 năm 2012 tại Garden Grove, Miền Nam California, Hoa Kỳ.

Lược thuật tiểu sử của Đại Sư Orgyen Phuntsok Rinpoche

Từ thơ ấu, Đại Sư Orgyen Phuntsok đã được Đức bổn sư H.H. Dudjom Rinpoche chứng nhận là vị hóa thân của đại hành giả Togden Kunzang Longdro Rinpoche ở vùng Powo xứ Tây Tạng. Đại hành giả Togden Kunzang Longdro là một hành giả đã chứng ngộ, người là đệ tử tâm huyết của Đức bổn sư His Holiness Dudjom Rinpoche và có ảnh hưởng trong việc truyền bá Phật pháp tại Tây Tạng và đặc biệt là vùng Pemakod.

Trong 15 năm đầu của đời ngài, Đại sư Orgyen Phuntsok đã tu tập và nhập thất tại tu viện của ngài ở Pemakod. Ngài đã hoàn tất 9 năm tu tập tại tu viện Namdroling ở Ấn độ, tại đây ngài đã thuyết pháp trong 3 năm. Tu viện Namdroling ở Ấn độ được Đức bổn sư Penor Rinpoche, là người chấp chưởng của dòng Cựu Truyền (Nyingma) Mật tông Tây tạng. Tu viện Namdroling là tu viện lớn nhất của dòng Cựu Truyền của Phật giáo Mật tông Tây tạng.

Từ năm 1999 cho tới nay, Đại sư Orgyen Phuntsok cùng với Trung tâm Vairotsana hổ trợ Đại sư Bhakha Tulku Rinpoche trong việc hoành pháp tại phương Tây. Ngài đã từng hướng dẫn và tổ chức những cuộc nhập thất và thuyết pháp khắp nơi ở Hoa Kỳ. Ngài đã từng giảng dạy tại trường Đại học Santa Barbara, California. Hiện tại, Đại sư Orgyen Phuntsok là Hội trưởng của Trung Tâm Vairotsana Foundation tại thành phố Santa Barbara, California.

Muốn biết thêm chi tiết về Đại sư và các hoạt động của ngài, xin vào trang mạng http://www.vairotsana.org

Thực hiện video clip http://noigio.blogspot.com


Tuesday, March 27, 2012

GS Trần Ngọc Ninh - Góp Ý Về Lịch Sử Dân Tộc Việt



VanHoaNBLV tham dự và ghi nhận lại phần góp ý của Giáo sư Trần Ngọc Ninh trong buổi ra mắt sách "Nhìn Lại Sử Việt" của Giáo sư Lê Mạnh Hùng và "Ảnh Trường Kịch Giới" của Nhà văn Hồ Trường An do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, Cành Nam ĐT: (703) 525-4538. Email: canhnam@dc.net xuất bản và phát hành. Buổi ra mắt sách được tổ chức vào ngày 04 tháng 03 năm 2012 tại Viện Việt Học thuộc thành phố Westminster, Miền Nam California, Hoa Kỳ.

Nhạc nền ca khúc "Sao Mai" thơ Ngô Đình vận, nhạc Lại Minh Thuận.

Thực hiện video clip
http://noigio.blogspot.com



Monday, March 26, 2012

ĐD Đổ Tiến Đức - Giới Thiệu "Ảnh Trường Kịch Giới" Của Hồ Trường An



VanHoaNBLV tham dự và ghi nhận lại hình ảnh về buổi ra mắt sách "Ảnh Trường Kịch Giới" của Nhà văn Hồ Trường An do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, Cành Nam ĐT: (703) 525-4538. Email: canhnam@dc.net xuất bản và phát hành. Sách này được giới thiệu bởi Đạo diễn Đỗ Tiến Đức vào ngày 04 tháng 03 năm 2012 tại Viện Việt Học thuộc thành phố Westminster, Miền Nam California, Hoa Kỳ.

Nhạc nền ca khúc "Sao Mai" thơ Ngô Đình vận, nhạc Lại Minh Thuận.

Thực hiện video clip
http://noigio.blogspot.com

Sunday, March 25, 2012

GS Nguyễn Ngọc Bích - Giới Thiệu "Nhìn Lại Sử Việt" Của GS Lê Mạnh Hùng



VanHoaNBLV tham dự và ghi nhận lại hình ảnh về buổi ra mắt sách "Nhìn Lại Sử Việt" của Giáo sư Lê mạnh Hùng do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, Cành Nam ĐT: (703) 525-4538. Email: canhnam@dc.net xuất bản và phát hành. Sách này được giới thiệu bởi Giáo sư Nguyễn ngọc Bích vào ngày 04 tháng 03 năm 2012 tại Viện Việt Học thuộc thành phố Westminster, Miền Nam California, Hoa Kỳ.

Nhạc nền ca khúc "Sông Chiều" thơ Ngô Đình vận, nhạc Lại Minh Thuận.

Thực hiện video clip
http://noigio.blogspot.com

Friday, March 23, 2012

Prof. Nguyễn Ngọc Bích - Vietnam: Which Path to Follow

VIETNAM:
WHICH PATH TO FOLLOW

Nguyen Ngoc Bich





Whatever one may think about the Vietnam War, one of the virtues of American policy is that it is able to put things behind and move on.  This is a feature of the American temperament and an American divorce is always rather neat, very different from a Vietnamese situation where Nghĩa, Obligations, interferes with Love, Tình, when Love is no longer there.  It is cultural differences like these which separate a Vietnamese reading from an American reading of what has happened or is happening in Vietnam.
           
For instance, many of my friends, Vietnamese Americans now, take comfort in the admission made on September 29, 2010, by former National Security Council advisor and Secretary of State Henry Kissinger that "most of what went wrong in Vietnam, we did to ourselves."  This, they think, is not only an admission of failure on the part of the main architect of American policy towards Vietnam in the final years of the Vietnam War; as Vietnamese many of them think also that Kissinger and by extension, America should make amends for that failure.
           
On the other hand, speaking at a conference in April 2010 entitled "A 35-year Retrospective on the Role of the ARVN" (Armed Forces of the Republic of Vietnam, i.e. South Vietnam) held at the Army-Navy Club of Washington DC, in responding to a question on the same concern, Ambassador John Negroponte said that an involvement lasting 25 years (1950-1975) and costing 58,000 American lives is not something that one can dismiss easily as America not fulfilling its obligations, whatever the merits of that conflict.
           
In fact, as we move away from the strong emotions evoked by the war there are more and more studies by respected scholars giving justice to the fighting capabilities of the South Vietnamese army and the strong spirit of opposition to the Communists exhibited by the South Vietnamese population in such test cases as the Tet Attacks of 1968 or later, in the Boat People exodus out of Vietnam.
           
One would think that with all that revisionist thinking going around, American policy-makers had finally been able to get rid of the so-called "Vietnam syndrome"--i.e. that Vietnam would color all our thinking about foreign entanglements and new conflicts arising around the world.  "By God, we've kicked the Vietnam syndrome once and for all," exulted President George Bush after the Gulf War against Saddam Hussein.  "The specter of Vietnam has been buried forever in the desert sands of the Arabian Peninsula."
           
Is that claim really true?  Coming from someone who was on the other side of the debate, Secretary of State Hillary Rodham Clinton--who opposed the war as a college student and who has written that she held contradictory feelings about expressing her opposition--spoke in broad terms about how the conflict influenced her generation's view of the world: "Like everyone in those days, I had friends who enlisted--male friends who enlisted--were drafted, resisted, or became conscientious objectors; many long, painful, anguished conversations...  And yet, the lessons of that era continue to inform the decisions we make."
           
That is why I believe we are still here, today, discussing Vietnam and which path it should follow.  And I thank you for giving me this opportunity to discuss an issue that is not only very close to my heart, to our hearts if I may say so on behalf of the Vietnamese audience here present, but also is very much relevant in the context of America pivoting "back to Asia."

Soon after the end of the war in 1975, the United States under President Jimmy Carter was ready to embrace its enemy, North Vietnam, especially after Hanoi had reunified the country under its aegis in July 1976.  This readiness to embrace the enemy is seen by many Vietnamese as being too hasty, almost to the point of indecency, which led Hanoi to the mistaken belief that the U.S. was ready to surrender on its promise of "war reparations" (as understood by Hanoi) amounting to 3.5 billion.  It was Hanoi's insistence on this payment which led to the ultimate failure of the talks which initially had earned Hanoi's entry into the United Nations in September 1977.  A year later, all these preliminaries became pointless when the U.S. learned that Hanoi was about to sign a 25-year alliance and security pact with Moscow (November 1978) in preparation for an invasion of Cambodia that started on Christmas Day 1978.  It was this crucial piece of intelligence which led Zbigniew Brzezinski, then National Security advisor, to convince President Carter to definitely "tilt" towards Beijing and establish normal relations with Mao's regime (January 1, 1979).
           
That was how the first rapprochement with communist Vietnam--which many Vietnamese saw as unwise and inadvisable anyway--was scuttled.  This was a mistake that eventually cost Hanoi ten years of war with Pol Pot's Cambodia (1979-1989) and a murderous border war with China (February-March 1979) and pushed back relations with the United States 18 years until 1995 when President Bill Clinton decided to normalize U.S. relations with its former enemy.

Great Strides in U.S.-Vietnam Relations

            Since then five ambassadors (Pete Peterson, Raymond Burghardt, Michael Marine, Michael Michalak and currently, David B. Shear) have presided over the transformation of once deeply and mutually suspicious enemies into a flourishing relationship that might eventually make Hanoi a strategic partner of the United States.  What is it that has brought about this promising prospect?
           
Was it because Hanoi has had a change of heart?  True enough, as early as 1985 when Gorbachev discovered that the coffers of the Soviet Union were empty necessitating a drastic revision of priorities and abandoning the arms race with the United States, he told Nguyen Van Linh, Secretary-General of the Communist Party of Vietnam (CPV), then on a visit to Moscow that the Soviet Union no longer had the means nor ambition to interfere into the internal affairs of its allies, let alone a far country like Vietnam, even though the Soviet navy was maintaining a base in Cam Ranh Bay in Central Vietnam at the time.  Not quite believing his ears, Nguyen Van Linh, one of the most conservative personalities in the Vietnamese Communist movement, went on to visit Berlin and here he was told by Erich Honecker himself that such was indeed the case.  He was so shocked that he had a heart attack and had to be briefly hospitalized right there in East Berlin.  On coming home he conferred with the other leaders, including the most powerful man behind the scene at the time, the Maoist leader Truong Chinh, the one held responsible for the Land Reform campaign of 1953-1956 in North Vietnam that claimed 172,008 victims (according to recently divulged official statistics).  It was Truong Chinh who launched the slogan, "Đổi Mới Hay là Chết" ("Renovate or We Are as Good as Dead"), and who encouraged Nguyen Van Linh to launch the now famous Đổi Mới policy in all areas. 
           
Đổi Mới came at the right time and saved Vietnamese Communism from the fate that befell communism in Eastern Europe and eventually even in the Soviet Union.  Instead of bucking the clandestine trends that were resisting the government policies at the time (such as resistance to agricultural collectivization and killing of draught animals in the South, contracting out farm labor in Vinh Phu province--a trend that was spreading in the North, etc.), Nguyen Van Linh eased on these restrictions and eventually co-opted these trends.  In intellectual life, this liberalization culminated in the October 6 and 7, 1987, meetings with the writers and artists in Hanoi in which Nguyen Van Linh called for the "unfettering of the chains" ("cởi trói") that were binding them.  This led to a renaissance in the arts with the likes of Nguyen Huy Thiep and Duong Thu Huong, Bao Ninh, which however petered out after a couple of years--due to what was seen as too much freedom and therefore led to re-impositions of the stricter controls.  
           
Economically also, the restraints were loosened so as to allow for more personal initiatives and as a result, agriculture rebounded.  From the starvation days of 1975-1985, during which period the country had to depend on imports of wheat flour (to bake bread and thus change the traditional diet) and even barley ("bo bo," which normally is fed only to horses) from abroad, the country became once again a rice-exporting country in 1989.  In commerce road checks were eliminated and trade rebounded, bringing down inflation which in 1987 was running at 800 percent down to much more manageable levels.  Subsidies and ration cards also were gradually reduced and eventually done away with, which allowed for a more open market.  Then foreign investment was allowed starting in 1987, which led to the creation of a real proletariat, a class of workers which now counts tens of millions who depend on salaries that they take home from work.
           
All this resulted in a mixed economy which the government and CPV calls "a market economy with socialist orientation," a system which is described as "neither mouse nor bat" but which nonetheless saved the country from collapse, unlike the Soviet Union or its satellites in Eastern Europe.  Thus, it is Vietnamese pragmatism which saved the Socialist Republic of Vietnam, one of four remaining communist countries in the world, from the dire fate of its former allies.
           
Today, outwardly Vietnam is a flourishing economy with a healthy annual growth rate of 6-7 percent and which trades with most of the major countries of the world.  According to Ambassador David Shear, trade between Vietnam and the U.S. reached 20 billion U.S. dollars in 2010 and 22 billion in 2011.  In the field of education and development, there are now nearly 15,000 students from Vietnam studying in U.S. universities and colleges in the school year 2010-2011, representing an increase of 13.5 percent over the year before.  (This pales, however, in comparison with the number of Vietnamese American students in U.S. universities and colleges which comes to some 153,000 nationwide.)  While the vast majority of Vietnamese Americans do not recognize the government in Hanoi as their legitimate government there are still over 200 U.S.-based NGOs active in Vietnam in such fields as charity, education and medicine.  It is hoped that these NGOs would serve as eventual models for the civil society that is sorely lacking in Vietnam, at least when the regime loosens up its monopolistic control in almost every field in the near future.
           
In recent years Vietnamese-American relations have moved well beyond economic, humanitarian and educational exchanges.  According to Ambassador Shear, the United States has supported Vietnam in many diplomatic functions.  As a result, Vietnam has joined ASEAN (1995), WTO (2006, even ahead of the Russian Federation), the UN Security Council (2007) as a two-year non-permanent member and even assumed the chairmanship of the Security Council in 2009.  It is right now negotiating for membership in the Transpacific Partnership (TPP) and for the Generalized System of Preferences (GSP), which would give it the broadest access to the American market. 

A Very Poor Human Rights Record

            What is holding these negotiations back, however, is the very poor record of Vietnam's human rights performance.  Germany-based Transparency International consistently ranks Vietnam among the lowest graded countries and last year, two reports commissioned by the Embassies of Denmark and Sweden in Hanoi in conjunction with the World Bank said that vast "reforms are needed to improve on transparency and to reduce corruption in land management," which is prevalent throughout the country 70 percent of which is agricultural land.  Even in urban areas, the government has outright confiscated lands and assets, buildings (convents, monasteries, seminaries, pilgrimage sites, cemeteries) and institutions (denominational schools and universities, orphanages, leprosariums, charity clinics, etc.) belonging to various churches and refuses to return them after many decades even though these lands and assets were originally said to be "on loan" only to the government.  City people are often forcibly displaced with minimal compensation, as in the Cồn Dầu incident in Da Nang, so as to make place for roads and highways, airfields, or even golf courses.  Many people believe this question of land expropriation to be the Achilles heel of the regime.
           
As the government monopolizes all mass media, some 70 radio and television stations and nearly 700 print media and keeps them all under very strict control there is no room for free expression or for opposite ideas to those allowed by the CPV Cultural and Ideological Committee.  Even a well-known think tank like IDS (Institute of Development Studies), which was peopled by mostly former high-placed government officials, had to fold its operations some three years ago when Premier Nguyen Tan Dung came out with a decision forbidding them to publish their findings if they are contrary to government policies.  Not just the media, even printing presses--all of them--are under government control and often publications which have cleared through censorship are recalled and destroyed.  And reporters can go to jail for publishing stories that they get from high-placed government sources.  No wonder that the annual reports of the New York-based Freedom House or Committee to Protect Journalists consistently cite Vietnam as one of the worst countries as far as freedom of the press and freedom of expression are concerned.  Even P.E.N. International which meets twice a year never fails to issue resolutions, year after year, condemning Vietnam for its "writers in prison" list.
           
As far as Internet freedom is concerned there is in Vietnam, as in China, such a thing as the Net police.  Not only the Internet café owners are responsible for registering all Internet users and denounce them to the police if they see something suspicious, the police, often plainclothesmen or women, are free to roam the Internet cafés and watch you blatantly behind your back.  They can arrest you on the spot, confiscate your USB, or even haul you to the police for interrogation without the need for an arrest warrant.  Fortunately, many people can now own their own laptops or computers and work from home.  However, even this is not safe as the police can enter your home unannounced and take away your computer for checking on contents found therein.  That is why Reporters Sans Frontières in France has year after year cited Vietnam as one of the ten worst "enemies of the Internet."  And that is why Congressman Ed Royce (Republican, CA) has sponsored a bill on Internet freedom which is gaining more and more adherents in the House of Representatives and could become law in the near future.
           
As far as freedom of religion is concerned, in the run-up to get admission to the World Trade Organization (WTO), in 2004 and 2005 Hanoi did relax somewhat and let out, among others, Father Nguyen Van Ly from prison for purposes of medical treatment.  President George W. Bush consequently ordered Hanoi taken off the CPC (Countries of Particular Concern) List, which would have restricted the hands of the U.S. government in dealing with Hanoi and make it impossible for Hanoi to join WTO.  Instead of taking it as a friendly gesture of the United States, as soon as Hanoi got admitted to the body it turned around and reimposed the restrictions on religion and in fact caused several conflicts with the Catholic Church (such as the land disputes with Thai Ha Parish right in Hanoi, eventually forcing the resignation of Archbishop Ngo Quang Kiet, one of the beloved Catholic leaders, and several other incidents, leading to night protest vigils involving tens of thousands of participants). 
           
In the case of the Buddhist Church, the traditional Unified Buddhist Church of Vietnam remains outlawed although never officially so.  Even Thich Nhat Hanh's pacifist denomination, who for years tried to accommodate the Communists and finally got the permission to establish a monastery in Lam Dong Province near Dalat, where he could train 400 nuns and priests.  Although given a contract lasting five years starting in 2006, on June 27, 2009, according to Wikipedia "electricity was cut to Bat Nha [the monastery in question].  Over the next two days mobs wielding sledgehammers, rocks, and feces raided the monastery, threatened the monks and nuns, and damaged buildings.  Authorities made a decision to allow Bat Nha to remain occupied until September 2.  Nhat Hanh's followers refused to go."  Hoodlums were then used to drag the monks and nuns out, tearing up their clothes and belongings.  It turned out that the original contract was a mere ploy to give the world the appearance of freedom in religion in order to get the regime off the hook as it was threatened with reinstatement in the CPC List.
           
Such cat-and-mouse games merely show that the government of the Socialist Republic of Vietnam was not truly interested in religious freedom.  Instead, it keeps the various churches under a tight rein, allowing only one (government-run) publication, the weekly Giác Ngộ ("Enlightenment"), for instance, for about 60 million Buddhist followers in the country.  Or again, it infiltrates the Catholic Council of Bishops and tries to run it through leaders who are more amenable to the government's directions.  It also forces Catholic seminaries to run compulsory classes on Marxism-Leninism, the history of the Communist Party of Vietnam and Ho Chi Minh's thoughts--all avowedly atheist.
           
When under the pressure of the United States, it drew up a law recognizing the existence of newly established churches by asking them to register with the government, it also made it extremely difficult for these churches to get their license to operate.  Thus, it knows, through the registration process, which protestant church, for instance, was trying to get established in Vietnam but it only gives recognition to a few--thus keeping hundreds of house churches in the lurch, making them fear for stepping out of line and threatening their very existence.  The paradoxical result of such a situation is that a church can grow to thousands of followers but it would still have to operate either clandestinely or only in sufferance.  Take the case of a religious festival celebrated in May 2011 by some 4,000 Hmong Christians in Mường Nhé District, Điện Biên Province.  The police came and asked them to disband because apparently it did not get previous approval by the authorities.  When they refused to, the police started shooting with real bullets, killing some 72 people, including old and young, men and women and children, and ended up arresting 130 whom they accused of rioting.  As the location was near the Laotian border several dozen people managed to flee across Laos to Thailand where they could retell the terrible tragedy of that night.
           
Is it any wonder that the U.S. Commission on International Religious Freedom, a body created by Congress to monitor religious freedom developments around the world, in recent years has kept recommending that Vietnam be reinstated on the CPC List on the basis of yearly visits to a variety of religious leaders and institutions in Vietnam?  But the State Department has steadfastly refused to do so, claiming that improvements no matter how slight have taken place and that this question must be weighed against other considerations in the whole picture of normalized relations with Vietnam.
           
In response, what does the government in Hanoi do?  Last year, they took Father Nguyen Van Ly back to prison and recently, they appointed Hoàng Công Tư, one of the more vicious Deputy Ministers of Public Security, to head the Committee of Religious Affairs--the main government body in charge of handling the various churches active in Vietnam.
           
Human rights, said Ambassador David Shear recently, remain a sore spot in the relations between the two countries, a point that Secretary of State Hillary Clinton had told directly to Vietnam's President Nguyễn Minh Triết at the APEC (Asian-Pacific Economic Conference) meeting in Honolulu in November 2011.  Subsequently, Senators John McCain and Joe Lieberman while on a four-member visit to Hanoi also told publicly at a press conference that if Hanoi wishes to get U.S. arms (which are apparently coveted items in Hanoi's shopping list) it had better improve on its human rights record.  At every meeting he had with high officials in Hanoi or Saigon, the ambassador assured us, "I impressed upon them the importance of human rights in U.S. policy."  The question, though, said one sceptic listener, is: But does the message sink in?  And what proof do we have that it sank in?
           
Last December 30, Việt Khang, a young composer, was arrested because of two soft-spoken songs that he wrote: "Việt Nam Tôi Đâu?" ("Where is my Vietnam?") and "Anh Là Ai?" ("Who Are You?").  "Who are you," he asks the police, "to beat me up when I have done nothing wrong?  Like loving my country..."  To this day, almost three months later, it's still not known where he is kept and detained.  This so shocked the community that a petition on the White House "We the People" page gathered 25,000 signatures in four days.  And this in turn so impressed the White House that they arranged for a meeting with nearly 200 Vietnamese American leaders on March 5, 2012.  By the time March 5 came around, the number of those who signed on the petition had shot to 143,000, a number so impressive that every speaker who spoke on that day had to acknowledge it as a phenomenal achievement, one never seen before since the "We the People" page was up.  And beside the 200 who were admitted into the Eisenhower Executive Office Building attached to the White House, over a thousand also gathered outside in the bitter cold to support the representation of those inside.  The next day, 500 remained in town to walk the halls of Congress and make representations to Senators and Congressmen about the egregious state of affairs in Vietnam as far as human rights are concerned.
           
Thus in one quick exercise, the Vietnamese Americans have proved that they could mobilize themselves on a vast scale for a good cause, and that all disunity, which is said to be the characteristic of our splintered community across the nation, was just a myth.  Not only the old were not dismissed as unrealistic, planted in the past, neither the young were called nincompoops knowing nothing about the suffering of 90 million people back in the old country.

"America is back!"

            When Senator Obama became the new President of the United States, there was hope that he would devote some of his time to Asia, having been raised himself as a young Indonesian in Jakarta.  Furthermore, as a child he also spent his tender years in Hawaii where he must have met and made friends with lots of kids of East Asian background.  Would such a person help correct the generally Europe-centric vision of America's policy makers?
           
But the first two years of his administration had him swamped in the details of two wars in the Middle East (Iraq and Afghanistan) and the Arab Spring threatens to take more of his attention away from Asia. 
           
As the war in Iraq was concluding and the one in Afghanistan winding down, President Obama did turn his attention to the Far East and Asia.  In September 2009 Secretary of State Hillary Clinton said that "America is back" in Asia.  In July 2010, while attending an ASEAN meeting in Hanoi, she spelled out the U.S. position on the South China Sea (which the Vietnamese call their "Eastern Sea"): free international navigation through this piece of water is considered a "national interest" of the United States, which the U.S. is willing to defend together with its allies, but the U.S. prefers to see conflicts arising from this body of international waters resolved peacefully so as not to disrupt the huge international traffic of goods and commodities that uses those sea lanes to feed the economies of Japan, China, South Korea and Taiwan, among some of the top economies of the world.
           
This was said in response to the Chinese extravagant claims to 80 percent of the South China Sea (through an arbitrarily drawn so-called "cow's tongue") and its definition given some time earlier that the South China Sea was one of China's "core interests" on the same level as Inner Mongolia, Xinjiang, Tibet and Taiwan.  That the United States in the person of Secretary Clinton was willing to come back with such a rebuttal was so shocking that the Chinese representative, Defense Secretary Yang Guanglie, had to walk out of the meeting and did not come back until half an hour later after he had apparently received new instructions from Beijing.
           
Ever since then, many American dignitaries have come to Vietnam, including former Secretary of Defense Robert Gates, and reiterated the firm U.S. commitment to defend the right of unimpeded navigation through the South China Sea.  In the meantime discussions are also going on between the U.S. and Vietnam about military ties which so far are limited to rather discreet exchanges of military personnel to learn about each other's capabilities.  American warships, including the aircraft carrier USS Washington, have visited Vietnam or made port calls to show that American naval power is constantly patrolling the area.  However, as Senators McCain and Lieberman have made abundantly clear in their press conference in Hanoi (January 20, 2012), Vietnam cannot expect to get U.S. weapons until and unless it can improve significantly on its human rights record.
           
In this connection it should be said that the interests of the Vietnamese American community (as seen expressed in the petition to the White House movement in February and March this year) are fully in consonance with the demands of Senators McCain and Lieberman, reflecting a wide range of consensus in the American Congress.

Which Way, Vietnam?

            What has Hanoi learned from its entanglements with foreign supporters?
           
Ho Chi Minh, the father of Vietnamese Communism, became early involved with the international communist movement.  As early as 1923, he was already an officer in the Krestintern (Peasant International) and then the Komintern starting in 1924.  In 1926 he was sent to China to outwardly serve as an interpreter in Michael Borodin's mission but in actuality to foment a communist movement in the Vietnamese nationalist ranks then operating in Guangdong.  But as a paid agent of the Communist International, he always made the Vietnamese aims subservient to the dictates from Moscow.
           
While his loyalty paid off in terms of weaponry and even military advice (from both China and the Soviet Union), thus enabling him and his movement to defeat the French in Dien Bien Phu in May 1954, he was frustrated in his nationalistic aim of unifying Vietnam when Zhou Enlai forced him to accept the partition of Vietnam at the seventeenth parallel at the Geneva Conference in July 1954. 
           
This led him to renew the war, this time first against the nationalists rallied around Ngo Dinh Diem, supported by the U.S., but later against the U.S. and the national army of Vietnam once Ngo Dinh Diem was killed in a CIA-supported military coup.  Although long portrayed as a pure David fighting against the U.S. and allied Goliath, recent scholarship revealed that at one point during this conflict the Chinese had as many as 320,000 troops stationed in North Vietnam, the Russians and Cubans provided military  advisors, and 801 North Korean pilots even engaged in dog fights with American F104s over North Vietnamese air space.  Thus went the myth of southern insurgency and North Vietnam's relative non-interference with the war in South Vietnam.
           
In actuality, although there were southern elements fighting against the government in the South, from the very first it was led by northern cadres who made sure that the "revolution" would not deviate from the Communist International aims as seen by Moscow.  As a matter of fact, it was Vo Nguyen Giap and his command staff in Hanoi who planned for the Tet offensives all over South Vietnam at least as early as one year before (1967) and it was Ho Chi Minh's Tet poem of 1968, broadcast over the radio, that served as the signal to launch the overall campaign.
           
The total failure of any popular uprising anywhere during Tet 1968 not only revealed the strategic miscalculations of Hanoi, it also helped to annihilate the infrastructure that the southern elements had spent decades building up in the cities and nationalist-held territories.  As they surfaced to lead the attacks in the cities, these southern elements were mowed down, which led to the near-complete wiping out of the insurgent movement in the South and the debilitating of much of the attacking forces sent down from the North.  About 80,000 of the attacking forces were eliminated in the more and more desperate gambles of 1968.  This took from three to four years, according to various Communist sources, for their troops to recover.  And this means that the southern insurgency which at first started small and appeared to be an indigenous guerrilla movement, from 1968 on, became a conventional war that pitted regimental and division-size units from North Vietnam against the army of the South, especially after 1972 when the U.S. ground troops were no longer involved in the fighting, leaving only air support and a reduced number of military advisors.  In the Easter Offensive of 1972, Hanoi sent south everything it had (some 14 divisions) in highly motorized columns supported by tanks and artillery, yet they were all beat back in An Loc, Kontum and Quang Tri after the initial shock.
           
Our side made two strategic mistakes which led to the final debacle.  One was President Johnson's decision not to run for a second term and the opening of peace talks with Hanoi in Paris.  This transformed a huge military victory into a psychological defeat, thus turning the tide of the war.  And the other was the huge concession made by Kissinger in the Paris Agreement of January 1973 to let Northern troops--clearly the aggressor party--stay in place in the South while the Americans pulled entirely out of Indochina.  Recalling years later this bad experience with the main North Vietnamese negotiator, Le Duc Tho, Kissinger said: "I would look a lot better if I had never met him."  And in support of this reading, Nguyen Khac Vien, probably the best-known intellectual in Hanoi, in 1977 declared in front of Antenne 2 Television in France: "Ha ha ha, we tricked you, we had you hoodwinked."
           
Little did Hanoi know that by cheating it was playing into the hands of Beijing.  After Ho Chi Minh's death Le Duan chose to side squarely with the Soviets.  When he went ahead and signed the friendship and security pact with Moscow, Vietnam became an international pariah in both Washington and Beijing's eyes.  Even Pol Pot got the backing of ASEAN, Beijing and to a lesser extent, the U.S.  Hanoi managed to get out of this bind only by unilaterally pulling out of Cambodia in 1989 when Eastern European communism was going down the drain.  When communism collapsed in the Soviet Union (1991), Hanoi was so scared of being "out in the cold" that it pleaded with Beijing to get back into the fold, now controlled by the latter.  This was what led to the Chongqing meeting with Jiang Zemin in September of 1991, at which basically the Vietnamese leaders surrendered to Beijing. 
           
This was the beginning of a shameful period in which communist Vietnam yielded on one front after another to the demands of its powerful neighbor to the North.  After the concession of the Paracel and Spratly archipelagoes to the Chinese (in an abject letter to Zhou Enlai signed by Pham Van Dong on September 14, 1958), Hanoi went on to sign one pact after another to carry out its promises made in Chongqing, losing land (at least 720 square kilometers of borderland, including the Nam-quan Gate separating Vietnam from China, the Ban Gioc waterfalls, and the Tuc Lam beach) and sea (an estimated 10,000 square kilometers of the Gulf of Tonkin) and fishing rights.  In recent years, Vietnam also signed concessions to China for exploiting bauxite in the Central Highlands and for renting 300,000 acres of forest land in six northern provinces for 50 years.

Despite all these concessions which threaten the very defense of the country, China remains insatiable and makes claim to all the possessions of Vietnam in the South China Sea.  It also harasses Vietnamese fishermen, sometimes shooting them to death or capturing them and their catch, demanding ransoms.
           
This so exacerbates relations between the two countries that anti-China feelings grow by the day, putting pressure on the government to do something about resisting these Chinese encroachments.  There is widespread and growing sentiment within Vietnam that only an alliance of sorts with the United States and other ASEAN countries could possibly help Vietnam squeak out of China's grip and retain its independence.  But such a move is fraught with danger and requires the most skilled negotiations and manipulations if it is to avoid a war in the near future with its powerful neighbor to the North.
           
What Vietnam is facing right now is a crisis of legitimacy.  Ho Chi Minh started out as a Soviet agent in the hope of throwing off the French yoke.  In this he succeeded just as his regime later succeeded in the war against the U.S. and South Vietnam but at enormous cost (at least 4 million lives) only to become a Chinese colony in all but in name, and now it has to struggle to get U.S. support in facing China and its depredations.  Why?  Because it is the first duty of any government to defend the territorial integrity of the nation but in this, the Hanoi government has failed miserably.  How well or badly it will do in countering the Chinese challenge will be the very test that the people of Vietnam will use to judge its final place in Vietnamese history.

Nguyen Ngoc Bich
Springfield, March 20, 2012

Thursday, March 22, 2012

Nguyễn Mai - Bà Bùi Thị Minh Hằng

BÀ BÙI THỊ MINH HẰNG


Nguyễn Mai

Một phụ nữ lớn tuổi, bà Bùi thị Minh Hằng, người rất tích cực tham gia mọi cuộc biểu tình tại thủ đô Hà nội, chống lại hành động của Trung cộng (TC): khủng bố, gây hấn, trong ý đồ xâm lăng để mở rộng lãnh thổ, nhằm bành trướng bá quyền thực dân mới. Hôm 16 tháng 10 năm 2011, tại bờ hồ Hoàn Kiếm, Hà nội, bà Hằng đang cùng mấy người khác đi loanh quanh bên bờ hồ thì “một vụ bắt người như khủng bố” xảy ra. Bà Hằng, bị một đám người trẻ vây quanh, rồi một thanh niên lạ mặt, mặc thường phục, giật chiếc nón bà đang đội trên đầu, bà Hằng giật lại và cuộc giằng co tiếp diễn trong tiếng hô hoán phản đối chửu rủa của đám quần chúng vây quanh. Có lẽ sợ đám đông tấn công thì sẽ bị cướp lại “con mồi”, kẻ lạ mặt liền ôm ngang người bà Hằng, mặc cho bà vùng vẫy kêu la, chống cự, kẻ gian vẫn xềnh xệch lôi bà lên một xe hơi chờ sẵn chạy đi mất hút. Điều rất lạ là chiếc xe chở bà Hằng lại là xe công an! Lúc bị bắt, bà Hằng đeo quanh người một giải băng vải màu đỏ, kẻ dòng chữ vàng “Giặc đến nhà bà già cũng đánh” và trên nón bà đội có viết mấy chữ “Hoàng sa, Trường sa là của Việt Nam”.

DÙNG CÔN ĐỒ ĐỂ BẮT DÂN

Vụ bắt bà Hằng như vậy rõ ràng là một vụ khủng bố của phường côn đồ gian manh, được công an Việt cộng “giàn trận”. Nếu vụ bắt người như thế này là của công quyền thì người thi hành lệnh bắt giữ phải mặc đồng phục, như cảnh sát chẳng hạn, và nhất là lệnh bắt phải là mệnh lệnh của tòa án, rồi người thi hành phải xuất trình lệnh bắt cho người bị bắt xem để phải được biết lý do của việc bị bắt v.v… Nhưng thủ tục nói trên chỉ là thủ tục tại các nước văn minh, còn đây là thủ tục của Việt cộng, của loài cộng sản (CS) man rợ mà Hồ chí Minh là kẻ đã học từ quan thầy Cộng sản Nga Tàu mà lập nên, cho nên côn đồ hay công quyền cũng chỉ là một. Chót hết, lúc bà Hằng bị bắt là lúc bà đang đứng với khoảng hai hay ba chục người, nếu cho rằng đây là cuộc biểu tình, thì sao lại chỉ bắt bà Hằng mà không bắt tất cả những người khác?

Chờ đợi không thấy mẹ về, người con trai bà Hằng suy đoán “vì mẹ hay dự những cuộc biểu tình mới đây, và đã bị bắt hai lần, nên lần này chắc cũng… lại thế” cho nên cậu đến thẳng trụ sở công an hỏi tin, thì được nơi đây trả lời “Không biết. Chờ mai trở lại sẽ cho biết”. Hôm sau tới công an hỏi thăm thì được biết bà Hằng đã bị giải thẳng lên Phú thọ, một tỉnh ở phía Tây Bắc Hà nội, và giam trong hai năm tại trại Thanh hà, môt trại đặt tên là “Phục hồi nhân phẩm”. Công an cũng cho biết “án lệnh” này là của Hội đồng Nhân dân thành phố Hà nội. Thế là lại thêm một điều kỳ lạ trong vụ bắt người như côn đồ khủng bố, ấy là lệnh bắt lệnh giam là do Hội đồng thành phố Hà nội, Thật rõ là lạ lùng!!! Hội đồng thành phố cũng là tòa án. Và hội đồng cũng là hội đồng nhân dân, cũng như quân đội nhân dân, cũng như công an nhân dân, phòng vệ nhân dân, tuốt luốt đều là nhân dân.Thật là quá khổ cho nhân dân!

“NHÂN DÂN” CỦA CỘNG SẢN

Nói về hai chữ “nhân dân”, thiết tưởng nên nói thêm là hai chữ nhân dân mà CS dùng không có nghĩa là “dân chúng” như ta thường nghĩ, vì đối với CS nó có cái dụng tâm đen tối. Nguyên là năm 1905, ở Nga có nhiều vụ nổi loạn chống lại chế độ quân chủ chuyên chế. Dân chúng nổi loạn tụ tập lại thành từng nhóm gọi là sô viết (soviet). Những nhóm dân chúng tranh đấu mới gọi là soviet. Từ đó trong các cuộc tranh đấu thì các đảng phái xưng tên của họ, như dảng Dân chủ, đảng Xã hội, đảng Lập hiến, đảng Cộng sản v.v… còn những nhóm dân đen thì là soviet.

Bây giờ CS nắm được quyền hành thì họ đặt ra các tổ chức như hội đồng này, hội đồng nọ, rồi thêm hai chữ nhân dân vào đuôi, thay vì chữ soviet, làm như những tổ chức này do dân chúng hoàn toàn tự do bầu ra, và đó là cấp thấp nhất của hệ thống quyền lực của chúng, để tiến hành những công việc mà CS muốn thực hiện nhưng việc đó dân không muốn cũng không được. Còn cấp cao hơn như tổ chức đặt tên là quốc hội, tức cơ quan đại diện cho cả nước thì, đảng CS “cử” tức lựa chọn người, để dân nhìn danh sách đảng đã lựa chọn sẵn mà bỏ phiếu cho người đó. Nếu có người nào tự ý đứng ra ứng cử thì người đó phải được dân phố, hay dân xóm mình đang cư trú bỏ phiếu “có cho phép người đó ứng cử hay không mới được”. Trong trường hợp trên thì người tự ứng cử biết trước mình không được ứng cử. Bởi lẽ giản dị là dân nào dám chống lại con mắt cú vọ của lũ công an ác ôn rình mồi “chống Đảng” để chụp lấy mà tống thẳng vào đề lao! Ngay cả như đến “quốc hội trò hề” được bày ra bằng cách “Đảng cử để dân bầu” sau chót mới tới Bộ chính trị của Đảng chỉ định chủ tịch quốc hội bù nhìn, như mới đây chủ tịch quốc hội mới là Nguyễn sinh Hùng, người Nghệ an, giòng họ Hồ. Tên thật của Hồ lúc nhỏ là Nguyễn sinh Cung .

Bởi vậy khi còn mồ ma Liên xô thì cái tên nước Nga gọi là “Liên bang các cộng hòa sô viết xã hội chủ nghĩa”, tiếng Pháp thì là Union des Républisque socialistes soviétiques, tiếng Mỹ là URSS, Union of Republics Sovietic Socialist. Còn Tàu thì là Cộng hòa nhân dân Trung hoa. TC kình LX cho nên tránh, không dùng chữ soviet, mà dùng chữ nhân dân. VC cũng bắt chước làm theo, cho nó đỡ lòi cái đuôi con đẻ của Nga. Chữ nhân dân, có cái dụng tâm lừa đảo của CS cho nên có người gọi giỡn là “nhằn dân” (nhằn nghĩa là bóc lột).

Chữ nhân dân theo cái nghĩa CS còn làm những việc ác ôn mà Hồ đã có bài dạy trong một lần đến thăm trường huấn luyện “công an nhân dân” Hồ nói rằng “Là một bộ phận của cả bộ máy nhà nước nhân dân dân chủ chuyên chính tiến lên xã hội chủ nghĩa, công an phải bảo vệ dân chủ của nhân dân và thực hiện chuyên chính với những kẻ chống lại dân chủ của nhân dân… Học sinh công an thì 95% là đảng viên, chỉ còn 5% là ngoài Đảng. Ngoài Đảng nhưng Đảng rất tin cậy, vì các cán bộ đó đã được chọn lọc, rất trung thành với Đảng” ( Hồ tập 8 tr 31). Một lần khác, nói chuyện với công an, Hồ nói “công an dù có năm bảy vạn đi nữa, thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân (tức dân thật, dân đen). Bởi vì 5 vạn công an chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn cặp tai, cho nên phải làm sao có hằng chục triệu đôi mắt, hằng chục triệu cặp tai, nói tóm lại công an phải dựa vào dân” ( Hồ tập 6 trang 122). Hồ không dám nói toạc ra rằng công an phải cố “xây dựng” trong dân chúng cho có được hằng triệu “ăng ten” tức kẻ chỉ điểm, để từng phút, từng ngày dòm ngó, theo dõi mọi hành vi, mọi cử chỉ, mọi lời nói, mọi giao tiếp, mọi tình ý, kể cả miếng ăn của dân, để báo cáo lại cho công an để công an "kịp thời đối phó”. Đó “màng lưới công an” bao la và rộng khắp như thế cho nên đã tạo ra trong dân chúng một nỗi sợ hãi đến nỗi cha mẹ cũng đã không dám nói thật với con cái về ý nghĩ thật của mình là ghê tởm giặc Hồ, mà ngược lại còn dạy, hay bắt con hát bài “con yêu bác Hồ”, để che mắt chỉ điểm và công an. Và trong khi nhà kiếm được chút thịt, nấu thịt thì có mùi thơm, muốn cán bộ không biết nhà mình ăn thịt rồi lại “điều tra lấy đâu ra thịt hay làm tay sai cho CIA mà có tiền mua”, vậy phải dặn con “nếu có ai hỏi ăn gì mà thơm phải nói mẹ phi hành để rang mắm”. Đó bệnh nói dối từ đó đến nay trở thành một “quán tính” của toàn dân, một thói quen không thể nào gột rửa được. Bởi thế cho nên trên một blog trong nước, blog “Quê choa” đã có bài viết “Bệnh nói điêu ở VN không có cách nào có thể chữa khỏi” - không phải chỉ dân chúng từ già đến trẻ phải nói dối cho được yên thân mà Đảng và Nhà nước mọi cấp đều nói điêu.

Cho nên trong trường hợp bà Hằng bị bắt bị tù rõ ràng đã cho thấy chế độ hiện đang cai trị ở VN chỉ là một thứ chế độ côn đồ. Không phải chỉ những người Việt nam chân chính gọi chế độ đang đàn áp, đang bóc lột dân chúng Việt nam là chế độ côn đồ. Mà toàn thể nhân loại, qua khung truyền hình, sau khi chứng kiến “cảnh bắt bà Hằng bị lũ đầu trâu mặt ngựa thực hiện như thế nào”, thì dư luận thế giới cũng sẽ, không thể dùng từ nào khác hơn là “côn đồ” để gọi cái chế độ đã và đang nuôi dưỡng và sử dụng lũ đầu trâu mặt ngựa mà Mác trong tuyên ngôn của đảng CS đầu tiên trên thế giới đã viết “Tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối nát của những tầng lớp thấp nhất trong xã hội cũ, thì đây đó có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào.” (Mác tr 554 ).

Đó, vô sản lưu manh đã được Mác nhắc nhở giai cấp vô sản lôi cuốn, bởi chỉ có phường lũ đó mới trung thành với Đảng vì được Đảng dùng làm cái cốt, như “cốt sắt bê tông”, mà tạo dựng lực lượng “bạo lực cách mạng của Đảng” để dùng vào những việc mà người dân thường, còn có lương tri và nhân tính không thể làm được như giết người vô tội, Rồi một khi tay của “thành viên bạo lực cách mạng” đã nhúng máu đồng bào thì chỉ còn một lối để sống là bám lấy Đảng, để tiếp tục phạm tội ác mà chỉ có Đảng mới nuôi dưỡng, bao che, cho nên lại hết lòng trung thành với Đảng. Còn tại các xứ văn minh thì vì chính quyền là do dân chúng tự do bầu lên, và dân chúng có quyền dùng nhiều cách để chính quyền không thể làm bậy. Còn đối với Việt cộng thì mẫu mực thông thường là chế độ độc tài mà Cộng sản gọi là chuyên chính vô sản, tức chỉ giai cấp vô sản (thực ra là nhóm cầm quyền nhân danh vô sản, dù chúng chẳng vô sản tí nào) mới có có quyền, muốn làm gì thì làm, tùy thích, dân chúng không có quyền ngăn cản hay chỉ trích. Tại VN cách nay chưa lâu, Nguyễn tấn Dũng, kẻ VC gọi là Thủ tướng, trong vụ mời TC khai thác bô-xít khắp Cao nguyên VN, rồi bị dư luận trong nước phản đối, và dư luận ngoại quốc chê bai, tên Dũng liền đưa ra một quyết định, đặt tên là quyết định 97, định rằng dân chúng không được công khai phê bình chính quyền. Dân có điều gì muốn trình báo lên nhà cầm quyền thì từng người một, viết đơn rồi ký tên mà gửi lên. Cấm không được một tờ đơn mà nhiều người cùng ký. Như vậy thì mọi hình thức bầy tỏ ý kiến không theo đúng quyết định của tên Dũng, thì có thể bị coi là chống Đảng, mưu gây rối, có thể bị xử tù. Dù vậy, trên mạng “Bô xít VN” có một bản tin nói rằng “Nguyễn tấn Dũng được TC thưởng cho 150 triệu đô la”. Bản tin ấy để hoài trên mạng “Bô xít VN”. Lúc trước đài BBC của nước Anh đã nói rất sớm về việc VC để cho TC khai thác bô xít lấy nhôm dùng về quân sự. Vụ này xẩy ra sau khi TC khai tác bô xít ở lưỡng Quảng đã bị dân chúng chống đối vì quá ô nhiễm đành phải thôi.Thế mà Việt cộng thì dâng hiến cho Tàu cho nên vụ bô xít này đài BBC nói “đây là món quà Nguyễn tấn Dũng tặng Trung quốc”. Bánh ú bô xít đi qua thì bánh dày đô la phải lại là đúng rồi, dân đen Việt nam chỉ còn biết “giơ mắt ếch” như mấy bà già thường nói giỗi! Cả thế giới đã biết nên Dũng làm lơ, ai nói gì mặc kệ.

ĐÂY LÀ NHÂN PHẨM CỦA VIỆT CỘNG

Được tin mẹ đã bị tù, con trai bà Hằng liền tìm đến thăm mẹ. Sau đó người con bà Hằng cho biết mẹ cậu bị giam trong một khu giam giữ những cô gái điếm và trong đó có nhiều người mắc bệnh aids, một thứ bệnh truyền nhiễm nặng và dường như hiện nay chưa có thuốc chữa. Cậu con cũng cho biết sức khỏe của mẹ cậu không tốt và bà đã nhiều lần xin với người coi trại để được đổi nơi giam nhưng không được chấp thuận. Thì ra không những bà Hằng bị bắt một cách bất hợp pháp, mà trong cách giam giữ người bị bắt rõ ràng là một sự chà đạp mộtcách vô cùng bạo ngược, lên nhân phẩm một người phụ nữ lớn tuổi mà tội trạng chỉ là tội yêu nước - chống xâm lược. Cách VC trừng trị bà Hằng có tính cách một sự trả thù thô bạo, hèn hạ, đúng ra đó là một cách tâng công với Thiên triều Bắc kinh. Bởi bà Hằng, một hình ảnh oai hùng quá, quật cường quá, một biểu tượng cho sự đấu tranh quyết liệt, và “đòn” đấu tranh quyết liệt đó lại như một lá cờ do một phụ nữ lớn tuổi phất cao để cho cả thế giới phải biết đến, khiến Bắc kinh càng thêm đau. Tinh thần hèn hạ, nô lệ ấy, truyền lại từ thời Hồ, đã ăn sâu vào óc, vào tim những kẻ kế thừa, VC tôn vinh, gọi đó là “đạo đức Hồ chí Minh”, thứ đạo đức làm nền tảng cho Đảng và chế độ của Đảng hiện nay, cho nên từ bốn năm rồi VC ra lệnh cho cả nước phải học tập, trong khuôn khổ một chiến dịch, kéo dài nhiều năm chưa kết thúc. Ngoài việc “chà đạp nhân phẩm” bà Hằng để trả thù, VC lại vừa diễn một trò hèn hạ khác để lập công với TC là “Đục văn bia”, đặt tại đền thờ vua Quang trung, nơi núi Dũng quyết, thuộc tỉnh Nghệ an, nơi nhà vua dừng quân để tham khảo La sơn phu tử, trước khi kéo quân ra Thăng long. Bài bia nơi đền thờ Ngài là để cho ngàn đời về sau, con cháu biết đến mà ca tụng công ơn vua Quang trung đánh dẹp giặc Tàu xâm lược để cứu lấy nền độc lập của Dân tộc VN ( Đài RFI 26-7-2011). Chỉ vì bài bia đó dù Thiên triều không biết đến, nhưng bổn phận là phiên thuộc của Triều đình thì phải tự biết mà sám hối. Theo ngôn ngữ CS, đó là bài học “tự phê”. Đó, thế mà Việt cộng lại đang muốn ứng cử vào “Hội bảo vệ nhân quyền của Liên hiệp quốc” để nếu thắng cử thì sẽ có thể nhân danh “Hội bảo vệ nhân quyền LHQ” để chà đạp nhân phẩm nhân dân VN mạnh hơn chăng!

Nói với VC về luật pháp, hay đạo lý, hay nhân phẩm, thì chẳng thà vạch đầu gối của mình lên mà nói, hay hơn thế chỉ nên quay mặt đi mà nhổ một bãi nước bọt cho đỡ tởm lợm. Bởi vì chúng là cộng sản, mà cộng sản thì từ Mác, Lênin, Staline, Mao, Hồ… chúng nó là thế cả! Chính vì vậy mà nơi giam bà Hằng được đặt tên là “phục hồi nhân phẩm”. Nhân phẩm của loài cộng sản là thế đó. Cho nên người ta phải ngờ rằng trong bọn cầm đầu đảng VC có lẽ không có một tên nào đã từng được sinh ra từ một gia đình đàng hoàng, có mẹ, có cha được xóm giềng giao tiếp, để con cái được học làm người, mà điều học đầu tiên là phải “cư xử cho đúng là con người, và tôn trọng nhân phẩm của con người, bất cứ người đó là ai”. Còn VC thì khác hẳn. Theo lẽ thường của loài người văn minh thì luật giam giữ người có tội, trước hết là để răn đe, và tìm mọi cách giáo dục để giúp người phạm tội tự mình sửa đổi cho mình, để không tái phạm. Còn công quyền có trách nhiệm tôn trọng nhân phẩm của người bị giam giữ, phải bảo vệ sức khỏe cho phạm nhân, không được chà đạp nhân phẩm của phạm nhân v.v… Ngược lại trong cách VC giam giữ bà Hằng “nhốt chung với gái điếm có bệnh hay lây” rõ ràng là một sự hành hạ “lây bệnh nguy hiểm”“ chà đạp nhân phẩm”. Nói nôm na thì rõ ràng “CS là loài man rợ, hầu như không có tính người , dưới cả dã thú”.

Ông Bộ trưởng Tư pháp người Anh, đã có chuyến đến thăm VN (vì VC nhờ Anh dạy cho chúng về luật pháp để chúng biết cách làm ra bộ chúng là chế độ trọng pháp luật) đã nói chuyện với sinh viên trường luật Hà nội rằng một vĩ nhân của Tây phương, ông Socrate, đã nói “con người cũng chỉ là một động vật, như những động vật khác mà thôi, nhưng con người vì biết tự mình đặt ra luật pháp để rồi tự mình lại tôn trọng luật pháp đã được đặt ra cho nên con người là hơn mọi loài động vật. Nếu con người không có luật pháp thì con người đó chỉ là loài vật mà thôi”. Ông Bộ trưởng Tư pháp Anh cũng nói Á châu cũng có một vĩ nhân, vĩ nhân đó là đức Khổng tử. Có người hỏi Khổng tử rằng ở đời có điều gì mà trong mọi trường hợp đều có thể dùng? thì ngài nói đó là chữ “thứ” - thứ nghĩa là chấp nhận sự khác biệt ở người khác. Nói theo ngôn ngữ thời nay thì là chấp nhận phản biện chấp nhận việc người khác có quyền có ý kiến khác mình. Đối với CS thì ngược lại “chỉ có đảng CS là hoàn toàn đúng, không bao giờ sai”, như vậy nghĩa là bất cứ việc gì CS làm cũng là đúng, dân chúng không tuân theo thì là dân sai, mà dân sai thì vào tù.

Bởi vậy ở Việt nam thủ tướng VC ra quyết định 97 trừng phạt mọi hành vi hay tư tưởng trái ngược với ý muốn của VC. Như vậy lời Bộ trưởng Anh đã nói có khác gì bảo “CS chỉ là loài súc vật”.

BÀY ĐẶT LÀM RA LUẬT, SAO KHÔNG DÙNG LUẬT

Việt cộng bắt và làm nhục bà Hằng là để trừng trị cái tội giám đụng đến quan thầy của chúng là TC, nhưng sao chúng không dùng luật chúng đã bày đặt là có luật. VC có một “bộ” luật, gọi là “bộ luật hình sự”. Gọi là bộ cho nó oai, giống như mọi nước văn minh gọi luật của họ là bộ, bởi sự thật luật của người ta nhiều vô kể, về hình cũng như về hộ, cực kỳ chi tiết, để có được sự công bằng và minh bạch cho đến chỗ con người soạn luật có thể nghĩ ra, tìm ra… cho nên chia ra làm nhiều bộ, mỗi bộ cả mấy ngàn trang. Đằng này “bộ luật hình sự của VC gồm 73 tờ, tức 146 trang, kể cả 4 trang bìa trước sau, và 28 trang giới thiệu, cùng trang mục lục".

Trong bộ luật nói trên, ở chương I mục A, về các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh Điều 78. Tội khủng bố. Phạt tù 12 năm đến tử hình. Điều quốc gia gồm 15 điều, trong đó có điều mang số 86 là điều vô cùng đặc biệt, mà vì tôi không biết gì về luật, cho nên không dám nói quyết là ngoài VC ra không biết có nơi nào trên thế giới có một điều luật như thế hay không. Đây là nguyên văn điều 86:

Điều 86. Các tội chống Nhà nước xã hội chủ nghĩa anh em. Người nào có những hành vi quy định ở các điều từ 72 đến 85, nhằm chống một Nhà nước xã hội chủ nghĩa anh em thì bị xử phạt theo các điều tương ứng.

Vì điều 86 của VC cực lực bảo vệ các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đúng theo “tinh thần quốc tế” là một trong ba cái tính mà một người CS gương mẫu như Phạm văn Đồng đã nói, khiến để nói về liên hệ thắm thiết giữa TC và VC sâu đậm như thế nào đến nỗi Hồ đã ví von liên hệ TC-VC như môi với răng, TC là răng mà VC là môi, môi phải che chở cho răng, bở môi mà hở thì răng bị lạnh. Vì lẽ đó mà VC phải đặt điều luật 86 để bảo vệ TC, mọi hành vi làm phiền lòng “anh em”. Cho nên xin tóm tắt dưới đây các điều luật từ điều 72 đến điều 85 :

Điều 72. Tội phản bội Tổ quốc. Phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
Điều 73. Tội nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Phạt tù từ 12 năm đến tử hình.
Điều 74. Tội gián điệp. nhiều loại phạt từ 12 năm tù đến tử hình.
Điều 75. Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ. Phạt từ 12 năm đến tử hình.
Điều 76. Tội bạo loạn. Phạt từ 12 năm đến tử hình.
Điều 77. Tội hoạt động phỉ. Phạt từ 12 năm đến tử hình.
Điều 78, Tội khủng bố. Phạt 12 năm đến tử hình.
Điều 79. Tội phá hoại cơ sở vật chất, kỹ thuật. Phạt từ 12 năm đến tử hình.
Điều 8o. Tội phá hoại việc thực hiện chính sách kinh tế xã hội. Phạt 12 năm tù đến tử hình.
Điều 81. Tội phá hoại chính sách đoàn kết. Phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.
Điều 82. Tội tuyên truyền chống chế độ XHCN. Phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
Điều 83. Tội phá rối an ninh. Phạt từ 5 năm đến 15 năm.
Điều 84. Tội chống phá trại giam. Phạt từ tù 10 năm đến tử hình.
Điều 85. Tội trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân. Phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.

Nhìn vào các điều luật trên đây, không biết điều nào áp dụng cho bà Hằng. Dù vậy bà Bùi thị Minh Hằng cứ bị tù, mà tội danh của bà thì chưa hề được nêu lên, mà cũng chưa có tòa nào xét xử! Bởi vì theo tinh thần của Thánh tổ Mác-Ănghen thì bà Hằng đáng bị tù thật, bởi, chưa vội nói tới tội “chống nhà nước xã hội chủ nghĩa anh em”, nội tội bà yêu nước, tức yêu Tổ quốc, yêu Dân tộc, phản lại tinh thần Mác-Lênin và như vậy là chủ trương dẹp bỏ VC, tiêu diệt tà giáo Mác Lê và tư tưởng Hồ. Nói tư tưởng Hồ là nói theo ngôn ngữ VC, chứ Hồ làm cóc gì có tư tưởng, nếu có thì chỉ là có quỉ thuật học từ Lênin là "treo đầu dê, bán thịt chó” để lừa gạt dân ngu, lại cả tin ở thuộc địa, rồi để đạt được giấc mộng “say điên quyền lực”, bằng cách nhờ Tàu, tức Trung cộng giúp đánh Tây. Từ đấy cho đến bây giờ, tức ngày bà Bùi thị minh Hằng, vì chống TC mà bị Việt cộng bắt và bị chà đạp nhân phẩm, cố tình gây bệnh truyền nghiễm nguy hiểm.

Tại sao bà Hằng chống TC xâm lược, như cả ngàn người đã từng đi biểu tình chung bà Hằng trong suốt 11 cuộc biểu tình ở Hà nội, ấy là chưa kể hằng chục triệu người dân Việt yêu nước, rất đồng tình với bà Hằng, nhưng không dám xuất hiện vì như trên vừa trính bày “màng lưới” công an nhân dân của Hồ dày đặc và tàn bạo quá làm cho dân chúng VN sợ hãi đến tê liệt thần kinh. Thế mà chỉ mình bà Hằng bị bắt, bị tù, bị chà đạp lên nhân phẩm, đúng lúc toàn thế giới kỷ niệm “ngày phụ nữ 8-3” để nhắc nhớ quyền của nữ giới thế giới - trừ nữ giới VN!

Lý do là ở chỗ này: trong tư duy chống TC, bà Hằng còn nhằm “chống ngôi sao thứ 6” trong lá cờ của TC mà TC bắt VC phải trương lên cho dân Việt thấy!

CHỐNG NGÔI SAO THỨ SÁU

Theo một cuốn sách nhỏ (86 trang), của Phạm văn Đồng , người làm thủ tướng VC ,và tuân lệnh Hồ làm mọi việc, như gửi công hàm cho TC thừa nhận bản đồ TC mới vẽ, bao gồm cả Hoàng sa, Trường sa, thì trong sách nói trên Đồng viết rằng “Hồ chí Minh là một người cộng sản mẫu mực” (trang 75). Theo tôi được biết thì một người công sản mẫu mực phải có đủ 3 cái “tính”: "tính giai cấp, tính đảng, tính quốc tế”. Phạm văn Đồng cũng viết “Hồ là chiến sĩ CS giàu tinh thần quốc tế vô sản" (tr 28). Bởi là người CS mẫu mực, lại giàu tinh thần quốc tế, cho nên, đầu tiên ở Pháp, Hồ là đảng viên CS Pháp, qua Nga là đảng viên CS Nga (tức Liên xô) về Tàu là CS Tàu, đến khi được phép lập đảng CS ở VN thì LX bắt phải đổi thành đảng Đông dương, tức gồm cả Miên Lào, tức xoá thực thể quốc gia dân tộc của cả ba nước. Rồi Hồ vì là cán bộ quốc tế CS, nên đứng ngoài và đứng trên, còn ban chấp hành trung ương của đảng mới lập gồm 9 người thì có 5 người Việt, 2 người CS Tàu, còn 2 người để trống chắc dành cho Miên Lào.

Ngoài cái chủ trương chạy theo Quốc tế III, đã là phản quốc, phản dân tộc giống nòi, mà một khi cầu viện với Tàu để được tiếp tay để đuổi Pháp, lũ Hồ đã sửa cả điều lệ của đảng VC, trước đấy chỉ thống thuộc chủ nghĩa Mác-Lênin-Staline, nay thêm tư tưởng Mao trạch Đông, làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động (Hoàng văn Hoan, hồi ký, tr 357). Về việc xin giúp cố vấn thì Hồ xin cố vấn xuống đến cấp tiểu đoàn nhưng TC không chịu, có lẽ là không muốn đến bậc có thể lãnh nạn thương vong, cho nên chỉ nhận giúp từ cấp sư đoàn trở lên, Ngoài ra TC góp ý là phải huy động nữ giới vào quân đội. Tóm lại, trong chiến tranh thì quyền chỉ huy về chính trị thì có Lã quý Ba, chức vụ là đại sứ, nhưng thực chất là cố vấn chính trị và chiến lược, trực tiếp chỉ huy Hồ và Trường Chinh, Tổng bí thư, tên chỉ huy đảng trong khi Hồ còn bên Nga, vì vậy Chinh trực tiếp thần phục Tàu, đến nỗi về võ y chuyển nội dung cuốn “trì cửu chiến luận” của Mao thành “Trường kỳ kháng chiến”, và văn thì chuyển nội dung cuốn “Văn hóa đề cương” thành “Đề cương văn hóa”.

Còn quân sự thì tướng chỉ huy cao nhất là Trần Canh và nhiều phụ tá. Về tướng Trần Canh, trong dân gian có câu chuyện truyền miệng khắp dân gian là “Mỗi lần tướng Trần Canh lên ngựa thì một lính VC, được lựa chọn là khỏe mạnh nhất, đứng sát bụng ngựa, khom lưng thật thấp để tướng Trần Canh bước lên lưng người lính VC mà đặt chân vào “đâng” ngựa, tướng Canh đặt chân xong thì người lính dần dần đứng lên để tướng Canh ghé đít vào yên, là xong công tác”. Dù vậy chính Trần Canh, trong trận ra quân đầu tiên, đã tạo ngay đước bước chiến thắng mở màn cho chiến dịch biên giới, khiến toàn thể quân Pháp phải rút hết khỏi biên giới Hoa-Việt. Theo Hoàng văn Hoan, người đồng hương với Hồ, và cũng là học trò của Hồ trong lớp huấn luyện “Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Quảng châu” thì, khi cố vấn Tàu qua lãnh thổ Việt và bắt đầu bàn chuyển khởi binh, Hồ đề nghị đánh thẳng vào căn cứ chính của Pháp là Cao bằng, tướng Trần Canh bác ngay “Cao bằng là căn cứ chính, số lớn binh linh Pháp đồn trú tại đó, nếu đánh ngay vào đó. binh lính Việt binh nghiệp chưa lâu sẽ phải tổn thất quá lớn, lính Việt chưa sang tay cố vấn cả chính trị lẫn quân sự”. Câu chuyện này quá dài, chỉ xin nêu vài nét vắn tắt nhưng chính yếu về chính trị trong thời chiến tranh.

Theo như trên thì vì bà Hằng tha thiết yêu nước, liên tiếp dự những cuộc biểu tình chống Trung cộng (TC) gây hấn ở biển Đông, mưu toan thực hiện xâm lăng để bành trướng lãnh thổ, thì bà Hằng không những chống lại hành vi phản quốc của Hồ khi gia nhập cộng sản của ba đảng CS Pháp, Nga và Tàu, mà gia nhập như thế tức phủ nhận thực tế VN là một quốc gia, là tổ quốc của những người Việt không theo CS. Vì Hồ coi trọng tinh thần quốc tế của chủ nghĩa CS cho nên chính Hồ đã công khai kể lại sự việc mà Hồ coi như một vinh dự được là đảng viên đảng TC năm 1924 khi được Nga cho đi theo phái đoàn Borodine qua Trung quốc làm cố vấn cho chính quyền Tưởng giới Thạch, và trong khi ở Quảng châu thì Hồ được TC giao công tác để làm. Sau đó, năm 1938, sau khi được huấn luyện tại LX, Hồ được trở về Diên an, bản doanh của Mao trạch Đông, và được làm binh nhì trong Bát lộ quân, một binh đoàn trong quân đội TC Tại đây Hồ được học cách chống Phong kiến và chống Thực dân, đồng thời nhờ TC giúp liên lạc với nhóm Việt cộng ở trong nước ( Hồ tuyển tập tr. 241).

Việc Hồ phản quốc rất cụ thể ở đây là chính Hồ đã phủ nhận lịch sử đấu tranh sinh tử gian khổ của Tổ tiên ta chống họa Hán hóa, để thoát cảnh đô hộ tàn bạo trong cả ngàn năm của giặc Tàu. Hồ, nhân dịp quân Mao chiếm trọn được lục địa và lập chính quyền đầu tiên, Hồ đã viết bài ca ngợi “Trung quốc và Việt nam là hai nước láng giềng quan hệ mật thiết với nhau đã bao thế kỷ. Lẽ tất nhiên quan hệ giữa cách mạng Trung quốc và cách mạng Việt nam cũng đặc biệt gắn bó”. Rồi để kết luận cho bài xưng tụng Hồ viết “Trăm ơn nghìn nghĩa vạn tình, Tinh thần hữu nghị quang vinh muôn đời”. Liên lạc giữa các nước xã hội chủ nghĩa tốt đẹp được như thế là do như Phạm văn Đồng đã viết về tinh thần quốc tế của Hồ như sau “Tôi có thể nói rằng Hồ chí Minh là một người trong số những chiến sĩ cộng sản giàu tinh thần quốc tế vô sản”. Cho nên trong cái tinh thần tôn trọng chủ nghĩa quốc tế Hồ quên luôn lịch sử của dân tộc Việt “bị giặc Tàu đô hộ cả ngàn năm” cho nên, vì quá hăng say nịnh Tàu mà Hồ dám nói “Hoa Việt quan hệ mật thiết với nhau đã bao thế kỷ” và chỉ thị cho đảng VC “Từ nay về sau đảng ta ra sức giáo dục cho nhân dân thấm nhuẩn tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa” (Hồ tuyển tập tr 221). Cũng bởi tin tưởng vào tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa như thế cho nên, sau khi nắm được quyền hành ở Việt nam, rồi bị Đế quốc Pháp đem quân trở lại, Hồ quay qua nhờ sức ngoại bang, nhờ LX không được liền nhờ TC. Vì nhờ TC từ hột gạo, viên đạn, khẩu súng, lớn nhỏ và cả quân lính Tàu và cố vấn quân sự Tàu (Trương Hồng & Jon Halliday “The unknown story Mao” (trang 350 và Bs Li Zhisui ( Lý Chí Tuy) “The private life of Chairman Mao” trang 123) Bởi, miễn đạt được giấc mộng mà tôi gọi là “say điên quyền lực” cho nên Hồ tự đút đầu nó (mà cũng là từ đấy đút cả đầu dân tộc) vào vòng nô lệ Tàu và như lời chí sĩ Phan chu Trinh đã khuyên nhưng Hồ nhất định không nghe, đó là “đừng có nương nhờ ngoại bang mà rung chuông gõ trống, để rồi cái lưng của dân tộc Việt nam chỉ thay người cỡi mà thôi”. Đúng vậy Hồ đã khom lưng xuống cho vương triều Bắc kinh đặt đít lên lưng con ngựa Việt nam thay cho trước đó là Đế quốc Thực dân Pháp. Đến cả thế này: trước khi nắm được quyền lực của quốc gia Việt nam, lúc bấy giờ coi như “vật quẳng giữa đường, không ai thèm lượm”.

Hồ còn nịnh thêm - gọi dân Tàu là đồng bào “trong một truyền đơn” mà không biết có ai lượm được hay không, hay chỉ là nói phét, hoặc chỉ được rải ở Pắc bó và chỉ mẹ Nông đức Mạnh lượm được. Trong truyền đơn Hồ viết “Tháng 8 năm 1942, tôi vâng lệnh Đoàn thể đi cầu ngoại viện… Nay tôi mang về cho đồng bào một món quà cực kỳ quý báu, tức là lòng đồng tình sốt sắng của 450 triệu đồng bào Trung quốc đối với 25 triệu đồng bào Việt nam về cái tin Trung quốc sẽ tích cực giúp đỡ cuộc dân tộc giải phóng của chúng ta" (Hồ tập 3, trang 375). Như vậy Hồ là đồng bào với Tàu, và Hồ cũng mưu buộc cả dân tộc Việt là đồng bào của Tàu.

Thế rồi trong khi còn phải lẩn trốn ở vùng rừng Việt bắc, ngày 18-1-1949, trong một buổi lễ bế mạc hội nghị cán bộ, Hồ tuyên bố “Những vấn đề thảo luận thì nhiều nhưng đều hướng vào một đường đi: kháng chiến thắng lợi, xây dựng dân chủ mới, (“Dân chủ mới” là chủ nghĩa do Mao sáng tác, đã dịch ra Pháp văn “ La nouvelle democratie”, khác của Mác, vì Mác chỉ cốt công nhân đại xí nghiệp, còn Mao thì “liên minh công-nông” là trụ cột). “Ta họp trong lúc phong trào cách mạng thế giới đương tiến triển rất mau, nhất là cuộc thắng lợi của nhân dân và đảng Trung quốc. Ta là đảng Đông dương, nhưng còn có nhiệm vụ giúp sức vào công việc giải phóng Đông nam châu Á nữa. Vì ở châu Á, về lực lượng thì sau đảng Trung quốc, ta là đảng mạnh…” Đó chỉ mới nắm được quyền hành trong mười mấy tháng, mà vì hăng hái lập công với chủ nghĩa CS, nhất là với TC, Hồ đã quyết đem xương máu dân Việt ra, tự nguyện là đội xung kích cho mưu đồ của cái mà sau trận “huynh đệ Cộng sản tương tàn 1979” VC mới hơi tỉnh giấc “Hán thuộc”
mà sau trận 1979, trong bạch thư “Sự thực về liên hệ Hoa-Việt 30 năm qua” tố cáo đích danh Bắc kinh là “Bá quyền Trung quốc mưu toan bành trướng xuống toàn miền Đông nam Á” (Bạch thư tr 113). Tố cáo Bắc kinh “mưu toan bành trướng”, nhưng lại có tình giấu đi lời tuyên bố của Hồ với cán bộ vừa nhắc ở trên về việc Hồ quyết đem xương máu Việt mà lập đội xung kích trong công cuộc “giải phóng” tức nhuộm đỏ miền Đông nam Á, mà thống soái chính là Bắc kinh như Bạch thư của VC vừa nêu trên!

Ngoài ra, chính lời tuyên bố của Hồ ngày 18-1-1949, cũng như mưu toan bành trướng của Bắc kinh, như VC xác nhận, chính là sự thúc bách để Mỹ cùng mấy nước Tây Âu, Úc, Tân tây lan, Thái, Phi cùng đứng trong Đồng minh ĐNÁ tức khối SEATO, rồi sau đó Mỹ khởi sự can dự vào chính trị và quân sự ở Việt nam, mà mục đích chính là “áp dụng chiến lược ngăn chặn (containment stragedy of George Kennan)” không cho Trung cộng bành trướng xuống phía Nam. Lời tuyên bố này của Hồ, sau này VC thấy rõ là một lời tuyên bố huyênh hoang và dại dột cho nên chúng đã kiểm duyệt cắt bỏ phần “huyênh hoang dại dột” khi in lại bài diễn văn có câu đó, trong tập 5 bộ Hồ chí Minh toàn tập, tr 185. (Chuyện đi cầu viện ngoại bang tại Liên xô và Trung cộng thì còn dài lắm cho nên xin kể lại trong một dịp khác).

Cố tật nô lệ của CS ở VN khởi sự từ Hồ, có lẽ được bền chặt, theo ví von của Hồ là “Liên lạc Hoa - Việt như môi với răng, môi hở thì răng lạnh” - lấy hình tượng “Việt mà bị Đế quốc thống trị thì biên giới phía Nam của Hoa bị trống, cũng như răng Hoa bị lạnh vì môi Việt bị hở” nhưng chẳng dè năm 1979 bất ngờ răng Hoa cắn môi Việt một phát chết điếng người, đến nỗi Việt cộng phải công bố “Bạch thư” rồi ghi rõ vào hiến pháp được sửa lại năm 1980 để ghi thêm vào lời mở đầu với tố cáo “Bọn bá quyền Trung quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Căm-pu-chia”. Nhưng dù vậy, thay vì tự kiểm thảo như chúng vẫn khoe khoang “đó là phương pháp thần diệu để phát triển, tức tiến bộ”, ở trường hợp này là “từ bỏ bệnh nô lệ ngoại bang, bệnh say điên quyền lực, đàn áp, nô lệ hóa dân Việt không nương tay, nô lệ lý tưởng ngoại lai viễn vông, độc hại”. Hễ làm được như vậy tức tự mình mở ra cho mình một con “đường sống” sáng sủa mà nhân loại văn minh sẵn sàng đón nhận, rồi được thế giới Tự do giúp đỡ mà tự lực, tự cường. Nhưng như trên đã nói VC của Hồ không thể nào từ bỏ cố tât nô lệ, bởi nhờ nô lệ mà chúng có chính quyền quá dễ dàng, mau lẹ, chỉ nhờ áp dụng trò bịp của Lênin “treo đầu dê -bán thịt chó” để lừa bịp dân lạc hậu thuộc địa như dân Việt nam. Dễ như thế cho nên tự thân bất lương như bọn CS mê là phải. Hồ kể “Với phương pháp khéo léo của mình Lênin đã lay động được quần chúng nhân dân chưa giác ngộ, và lạc hậu nhất trong các thuộc địa” (Hồ tt tr 36-7) Hồ cùng nhóm đồng đảng cũng đã “treo đầu dê" (giải phóng dân tộc) để bán "thịt chó ghẻ" (chủ nghĩa CS) cho dân Việt nam thuộc địa Pháp, trong đó có cả LS Nguyễn mạnh Tường, người tượng trưng cho loài trí thức, bằng cấp thì lớn, nhưng đầu óc lại nhỏ. Từ đó dân Việt nam đâm ra dễ tin và rộng lượng cho đến ngày nay…

Nhưng cho đến ngày nay, thì may thay, cũng lại đã có những Gia đình Đoàn văn Vươn , dám dùng súng bắn chim để nổ phát súng lệnh, đem cái chết chắc, đối trước lực lượng áp đảo khổng lồ của binh đội Cộng sản, võ trang đến tận răng. Cái chết cầm chắc chỉ nhằm đem cái chết của Gia đình Đoàn văn Vươn để thức tỉnh tinh thần quật khởi chưa trỗi dậy của dân tộc Việt. Thế mà rồi gia đình họ Đoàn đã thắng đấy, và binh đội CS đã tẻn tò rút lui, và dân chúng cả thế giới la ó chính quyền côn đồ Cộng sản.

Cũng thế, tầng lớp phụ nữ cũng đã noi gương Bà Triệu Bà Trưng, và theo danh sách tổ chức đấu tranh cho “quyền làm người ở VN”, mà Tổ chức nhân quyền Liên hiệp quốc ghi lại, với 163 anh hùng và nữ kiệt, hiện đang sôi máu trong các nhà tù của giặc Cộng. Về phía anh thư nay lại thêm Bà Bùi thị Minh Hằng cũng lại đứng lên mà quyết sống mái với quân giặc Đỏ. Rồi Dũng sĩ Việt-Khang, người anh hùng trẻ tuổi, chẳng những không mắc bẫy giặc Đỏ, chăng mắc đầy rẫy trên báo chí “lá cải” của giặc Hồ với những hình ảnh lõa thể, với tin tức chỗ này có gái gọi, chỗ kia có bia ôm, và nhà nghỉ nhà ngủ đã có bảo kê… hơn thế bài giảng của giáo sư đại học được đăng trên báo “thuở xưa tổ tiên ta cũng theo mẫu hệ, tức người mẹ thường có nhiều chồng, và những người con được mẹ sinh ra không thể biết chắc bố mình là ai. Vậy ngày nay người trẻ có thể sống thử với nhau cũng là chuyện dễ hiểu"… Mà để giải trí, ngoài những “báo của bác Hồ” cả nước chỉ có báo ấy, nào có báo nào khác đâu !?. Thế mà Việt Khang, một thanh niên dũng cảm, đã không mắc bẫy VC, để bị sa đọa trong xã hội bị VC làm cho đồi bại, mà còn đứng thẳng người lên, cất cao lời ca thống thiết, tố cáo tội ác của lũ giặc Đỏ bán nước.

Việt-Khang kết nối cùng gia đình Đoàn văn Vươn, gia đình Huỳnh thị Thục Vi, với truyền thống Hoàng Diệu, sẵn sàng lấy cái chết để báo đền ơn nước, và bà phụ nữ lớn tuổi, Bùi thị Minh Hằng, hiên ngang đứng trước súng thù… đã đạt được mục tiêu cần thiết đầu tiên là “thức tỉnh tinh thần quật khởi của toàn dân, nhận rõ thân phận khốn cùng trong tay lũ giặc Đỏ bán nước, để sẽ cùng đứng lên, tự mình giải phóng cho mình”.

Đồng bào yêu nước, hãy cùng truyền bá rộng rãi, bằng mọi cách, cho đông đảo bà con nhìn thấy cảnh trên trang YOU TUBE một đồng bào nam giới, giữa cảnh “một bầy côn đồ công an VC, xúm lại bắt cóc bà Bùi thị Minh Hằng”, hai tay ông chống nạnh, nét mắt long lên sòng sọc, miệng chắc rủa sả lớn tiếng, không chút e dè. Bệnh sợ triền miên trong dân chúng, bị “lũ côn đồ” bạo lực cách mạng của Đảng trùm lên khắp nước… đã bị đẩy đến mức cùng… giờ bùng nổ phải đến !!!

Nguyễn Mai
March 18, 2012